Cuốn sách do tác giả Trần Văn Mỹ chủ biên, tập hợp 111 bài viết của 45 tác giả hội viên Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội. Như nhan đề cuốn sách, nội dung của các bài viết tập trung vào các lễ vật trong hội làng Thăng Long xưa - Hà Nội ngày nay.
Với bố cục chặt chẽ, cuốn sách dẫn người đọc đến với các lễ hội theo trình tự thời gian trong năm. Bắt đầu từ bài viết Lễ phẩm thờ thành hoàng làng của tác giả Đặng Thiêm, cũng là một cách đặt vấn đề, một dẫn luận cho cả cuốn sách… và cuốn sách được khép lại bằng bài viết Miếu Trung Hiền Kẻ Mơ của nhà nghiên cứu Vũ Tuân Sán.
Người đọc sẽ được “tham gia” hội làng Thăng Long - Hà Nội qua từng trang sách, từ các huyện ngoại thành như Mê Linh, Ba Vì, Bắc Từ Liêm, Sóc Sơn, Hoài Đức, Thạch Thất, Đan Phượng, Thanh Trì, Phú Xuyên, Thanh Oai, Đông Anh, Gia Lâm… đến Hoàng Mai, Đống Đa, Tây Hồ.
Điều thú vị là, phần lớn các lễ vật xuất hiện trong các hội làng đều là nông sản, đó là các loại xôi, bánh chưng, bánh dày, cơm nắm muối vừng, cốm, oản…; bên cạnh đó là các sản vật chăn nuôi như lợn, gà, trâu, bò hay là các phong tục rước lợn sống, trống gọi cỗ, đuổi lợn đêm, chạy lợn…; và các loại cây cối gần gũi với đời sống người dân như trầu cau, tre, mía… Qua các lễ vật trong hội làng bạn đọc có thể thấy được sự phong phú của sản vật tại các vùng đất, nền nông nghiệp lúa nước với lịch sử lâu đời...
Quá trình chuẩn bị lễ vật cũng như lễ vật hoàn thiện được dâng lên ban thờ trong hội làng cũng phản ánh sự tinh tế, khéo léo của người Thăng Long hào hoa và thanh lịch.
Xen trong từng câu chuyện kể về các lễ vật là những giai thoại gắn liền với tên tuổi của các vị Thành hoàng. Đó là các nhân vật có công với vùng đất sở tại, những danh nhân lịch sử hay những tên tuổi được tôn thờ chỉ có trong dã sử dân gian, và đôi khi lại là một hình tượng thần thánh trong ước vọng được bảo vệ bình yên của bà con nhân dân…
Trong cuốn sách này, các địa phương được đề cập tới chủ yếu thuộc vùng ngoại thành Hà Nội. Có thể đây là một sự cố ý, bởi như trong “Lời mở đầu” của cuốn sách, tác giả Trần Văn Mỹ có đề cập tới bộ sách Lễ hội Thăng Long - Hà Nội do PGS. Lê Trung Vũ khởi xướng năm 1998. Tới năm 2008, sách được bổ sung hội làng thuộc Hà Tây cũ, huyện Mê Linh (tỉnh Vĩnh Phúc) và các xã của tỉnh Hòa Bình khi những vùng này sáp nhập Hà Nội. Và tới năm 2011, sách được Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam in thành 3 tập với tên gọi Hội làng Thăng Long - Hà Nội.
Theo tác giả Trần Văn Mỹ, “252 lễ hội in trong bộ sách Hội làng Thăng Long - Hà Nội được các tác giả miêu tả tỉ mỉ từ sự tích vị thần, kiến trúc đình đền, đội hình rước, tế lễ đến các trò chơi trò diễn trong hội… Nhưng nếu đọc kỹ, bạn đọc thấy phần miêu tả lễ vật trong sách còn ít ỏi. Từ đó, một vấn đề được đặt ra là chúng ta sẽ phải làm một việc gì đó để bổ sung phần còn thiếu của những người đi trước…”.
Trong cuốn sách có đề cập đến một loại chè ở làng Thọ Am – Liên Ninh – Thanh Trì. Đình làng Thọ Am, xã Liên Ninh (huyện Thanh Trì) thờ Nguyễn Phục. Ông đỗ Tiến sĩ năm 1453 đời Lê Nhân Tông. Trong một lần đi sứ ông học được nghề trồng dâu chăn tằm rồi về truyền dạy cho dân làng, khi mất được tôn làm Thành hoàng làng. Tưởng nhớ vị tổ nghề, trong lễ hội đầu xuân, ngoài hương hoa, trầu rượu bao giờ cũng có món chè kho.
Theo lệ làng, phần tế có ba “vấn”. Mỗi vấn lễ có ba cỗ chay, mỗi cỗ có 5 bát chè kho. Nguyên liệu chính để nấu chè kho là đậu xanh và mật mía. Đậu xanh chọn hạt đều, ngâm nước đến khi mềm thì đổ ra hong khô, sau đó cho vào chảo rang. Để đậu chín đều, phải đun nhỏ lửa và đảo luôn tay. Rang đến khi lấy tay bóp nhẹ, vỏ đậu bong ra là được. Rang xong mẻ nào lại đổ vào thúng lót vỉ buồm để giữ độ nóng. Đậu rang xong ngâm nước nóng một đêm, sáng hôm sau đổ ra cái rá to, dùng tay xoa đều cho bong vỏ, đến khi cả rá đậu đều là các múi đậu vỡ đôi, lộ màu vàng óng. Công đoạn cuối là cho một ít nước vào nồi đồng đun sôi rồi cho mật mía vào, dùng đũa khuấy đều trong khoảng hai giờ, khi nào mật đặc quánh thì cho đậu vào, dùng đũa cả “đánh” luôn tay để khỏi bén nồi, đến khi nhấc đũa cả lên thấy các múi đậu kết chặt với nhau, bám chặt lấy đũa là được.
Chè nấu xong đong vào 15 cái bát to. Các bát chè được đặt vào mâm xà sơn son, do trai đinh của giáp đương trực khiêng ra đình. Có năm làng cử đội bát âm với cờ, tàn, lọng rước cỗ chè kho. Tế lễ xong, cứ 4 bàn đặt 1 bát chè. Khi ăn, dùng dao thái thành từng thỏi vuông to như ngón tay. Nếu được chế biến đúng cách chè càng để được lâu. Có năm tế cả tuần, đến khi thụ lộc chè cũng chỉ hơi khô và rắn lại.
Cuốn sách như một cánh cửa để mở về quá khứ, nhìn vào lịch sử như một dòng sông khi êm đềm khi ghềnh thác, mang chở biết bao phù sa của các trầm tích văn hóa đang chảy vào hiện tại. Với tất cả ý nghĩa đó Thư viện nhà trường hân hạnh giới thiệu đến bạn đọc những giá trị văn hóa lịch sử, tín ngưỡng – nét đẹp trong văn hóa của Hà Nội tiếp bước các bậc tiền bối để thế hệ trẻ thêm hiểu biết và trân trọng bản sắc văn hóa mà cha ông đã dày công xây dựng và gìn giữ qua nhiều thế hệ, thêm yêu và thêm tự hào về truyền thống văn hóa mà cha ông đã không ngừng tạo lập cho hôm nay và cho muôn đời sau”
Xin mời thầy cô và các em học sinh đến tại thư viện trường THCS Đại Áng tìm đọc cuốn sách trên với kí hiệu STK-002689